Nghiên Cứu Hán Nôm Năm 2018
Nghiên cứu Hán Nôm có một vai trò rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, điều đó ai cũng thừa nhận. Nhưng đối tượng của nghiên cứu Hán Nôm là gì? Vai trò của việc nghiên cứu Hán Nôm quan trọng như thế nào trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam? Nghiên cứu Hán Nôm đối với việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam có gì khác biệt với nghiên cứu văn hóa dân gian, nghiên cứu báo chí và văn học quốc ngữ? Đó là những vấn đề tôi muốn đặt ra và, trong một chừng mực nhất định, cố gắng làm sáng tỏ vấn đề theo cách nhìn và sự hiểu biết của tôi. Những ý kiến của tôi là những gợi ý để mời gọi các nhà nghiên cứu tham dự cuộc hội thảo khoa học này phát biểu thêm nhằm đi tới cái nhìn chung, tiếng nói chung bao quát và đầy đủ hơn về vai trò và ý nghĩa của nghiên cứu Hán Nôm đối với việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam.
Chữ viết là hệ thống ký hiệu để ghi chép ngôn ngữ. Trước thời Bắc thuộc, người Việt có chữ viết hay không, hiện nay không thấy dấu vết gì còn truyền lại. Theo Vương Duy Trinh, tác giả sách Thanh Hóa quan phong, thì nước ta thời cổ đã có chữ viết và đó là thứ chữ mà người Mường ở Thanh Hóa hiện nay còn dùng [1]. Tuy nhiên, đó chỉ là sự suy đoán, cho đến nay chúng ta không tìm thấy một tự tích nào khả dĩ chứng thực cho giả thuyết ấy.
Đến khi nước ta bị Trung Quốc thống trị, từ năm 111 trước Tây lịch, tức từ Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức đem quân sang xâm lược, cho mãi đến năm 938, khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng, trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, người Trung Quốc đã đem văn hóa của họ, trong đó có chữ Hán, phổ biến ở nước ta. Từ 939, Ngô Quyền xưng vương, mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ cho nước ta, cho đến khi nước ta bị người Pháp thống trị (ở Nam Kỳ từ 1867, ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ từ 1883), chữ Hán vẫn được tiếp tục dùng như văn tự chính thức của quốc gia.
Đến đời Trần (thế kỷ 13), chữ Nôm (thứ chữ do nhân dân ta vận dụng chữ Hán mà chế tác ra để ghi tiếng nói của dân tộc) bắt đầu được dùng để sáng tác thơ văn quốc âm, rồi dần dần thịnh hành, tồn tại và phát triển song song với chữ Hán.
Từ khi người Pháp đặt nền thống trị trên đất nước ta, chữ quốc ngữ Latinh và chữ Pháp dần dần thay thế chữ Hán và chữ Nôm. Năm 1915, bỏ thi chữ Hán ở Bắc Kỳ, đến năm 1918 bỏ thi chữ Hán ở Trung Kỳ. Tuy nhiên, chữ Hán và chữ Nôm vẫn được dân chúng tiếp tục dùng để ghi chép, sáng tác cho đến khoảng giữa thế kỷ 20 với một phạm vi và mức độ thu hẹp dần, mà tác phẩm Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh xuất hiện khoảng 1942-1943 được coi như cái mốc cuối đánh dấu sự cáo chung của chữ Hán và chữ Nôm.
Tóm lại, chữ Hán đã được nhân dân ta dùng làm phương tiện ghi chép trong hơn 2000 năm, còn chữ Nôm thì được sử dụng khoảng 700 năm. Chữ Hán và chữ Nôm đã có một quá trình sử dụng lâu dài như thế, nên kết quả là tiền nhân ta đã để lại một thư tịch Hán Nôm rất quan trọng.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.